AnhKTS,
AnhHungVoDanh,
BanXua61,
Berlin92,
BienHoa99,
Tho&Teu,
DHKT2,
DRIVERS,
KtAustralia, KTScacKhoa, CacKTS, KtParis, KtToronto, KyYeu, Thanh, Can, Nguu, Banh, OngDo, QueHuong, MuiViQueTa, AlbumViet, Sau33Nam, SearchJOBS, SHOPPING, EmailKTS, Chicago, Sydney, ThayNhac, SaRet, Toronto, Vietnam, Music, Houston, QuocKy, TienViet, Lispfile, MeViet |
Xin gửi tới Ngài Eiffel, * Công Tŕnh Sư dũng cảm đă xây dựng nên mô h́nh khổng lồ và kỳ diệu của công nghệ hiện đại, ḷng kính trọng và sự ngưỡng mộ cao nhất của tôi dành cho tất cả các kỹ sư (đă tham gia xây dựng Tháp), bao gồm Ngài Kỹ Sư Vĩ Đại.* Kư tên: Thomas Edison.** Sự trân trọng tột cùng đó hoàn toàn xứng đáng với một con người không chỉ tạo ra một Tháp Eiffel huyền thoại, mà c̣n là đồng tác giả của Tượng Nữ Thần Tự Do bất hủ ở Mỹ, và là tác giả của hàng chục công tŕnh sắt thép khổng lồ nổi tiếng khác trên khắp thế giới. Tháp Eiffel là 1 kết hợp toàn hảo giữa tài năng của 1 kỹ sư và của 1 nhà mỹ thuật, và chỉ cần có 2 năm để hoàn thành!!
Alexandre Gustave Eiffel
sinh ngày 15-12-1832 tại Dijon, Pháp. Là một người
đa tài, làm nhiều việc, giỏi nhiều nghề, nhưng ông nổi danh với tư
cách một
kỹ sư tài ba về kết cấu thép và nền móng. Tuy nghề nghiệp luôn đ̣i
hỏi những
tính toán chính xác đến mức khắt khe, bản tính ông lại rất lăng mạn,
thích
tự do phóng khoáng, không chấp nhận sự g̣ bó áp đặt, thích sống theo
hứng
thú của bản thân, ngưỡng mộ văn chương cổ điển, ngốn ngấu đọc
Voltaire,
Zola, Hugo, và nhiều tác giả khác. * |
B́nh Ngô đại cáo (Nguyễn Trăi)
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đă lâu. Nước non bờ cơi đă chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ Triệu, Đinh, Lư, Trần bao đời xây nền độc lập, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương. Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt thời nào cũng có. Cho nên Lưu Cung tham công nên thất bại, Triệu Tiết chí lớn phải tiêu vong. Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mă. Việc xưa xem xét, Chứng cứ c̣n ghi. Vừa rồi: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà, Để trong nước ḷng dân oán hận. Quân cuồng Minh đă thừa cơ gây loạn, Bọn gian tà c̣n bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống dưới gầm tai vạ. Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế, Gây thù kết oán trải mấy mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả đất trời, Nặng thuế khoá sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển c̣ng lưng ṃ ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng, Kẻ bị đem vào núi đăi cát t́m vàng khốn nỗi rừng sâu nước độc. Vét sản vật bắt gị chim xả chốn chốn lưới giăng, Nhiễu nhân dân bắt bẩy hươu đen nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng. Thằng há miệng đứa nhe răng máu mỡ bấy no nê chưa chán, Nay xây nhà mai đắp đất chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề những nỗi phu phen, Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông hải chẳng rửa sạch mùi. Ḷng người đều căm giận Trời đất chẵng dung tha, Ta đây: Núi Lam Sơn dấy nghĩa, Chốn hoang dă nương ḿnh. Ngẫm thù lớn há đội trời chung, Căm giặc nước thề không cùng sống. Đau ḷng nhức óc chốc đà mười mấy năm trời, Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối. Quên ăn v́ giận, sách lược thao suy xét đă tinh, Ngẫm trước đến nay lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc quân thù đang mạnh. Lại ngặt v́: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, Nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Tấm ḷng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về đông, Cỗ xe cầu hiền thường chăm chắm c̣n dành phía tả. Thế mà: Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nh́n chốn bể khơi, Tự ta, ta phải dốc ḷng, vội vă hơn cứu người chết đói. Phần th́ giận quâ thù ngang ngược, Phần th́ lo vận nước khó khăn. Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, Lúc Khôi Huyện quân không một đội. Trời thử ḷng trao cho mệnh lớn, Ta gắng chí khắc phục gian nan. Nhân dân bốn cơi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới. Tướng sĩ một ḷng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào. Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều. |
Trọn hay: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chính nhân để thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. Sĩ khí đă hăng, Quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân. Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh ta chiếm lại. Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất củ thu về. Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm, Tỵ Động thây chất đầy đồi, nhơ để ngàn năm. Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đă phải bêu đầu, Mọt gan kẻ thù, Lí Lượng cũng đành bỏ mạng. Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy, Mă Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng. Bó tay để đợi bại vong, giặc đă trí cùng lực kiệt, Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công. Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đă thay ḷng đổi dạ, Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại c̣n chuốc tội gây oan. Giữ ư kiến của một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian. Bởi thế: Thằng nhăi con Tuyên Đức động binh không ngừng, Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy. Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại, Năm ấy tháng Mười Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang. Ta trước đă điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong. Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực. Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế, Ngày hai mươi trận Mă Yên Liễu Thăng cụt đầu. Ngày hăm lăm bá tước Lương Minh đại bại tử vong, Ngày hăm tám thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn. Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá, Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc Sĩ tốt kén người hùng hổ, Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh. Gươm mài đá, đá núi cũng ṃn, Voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không ḱnh ngạc, Đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hồng sụt toang đê vỡ. Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang B́nh Than máu trôi đỏ nước. Ghê gớm thay, sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm thay, ánh nhật nguyệt phải mờ. Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật, Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân. Suối Lănh Câu máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc, Thành Đan xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đ́a máu đen. Cứu binh hai đạo tan tành quay gót chẳng kịp, Quân giặc các thành khốn đốn cởi giáp ra hàng. Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, Thần Vũ chẳng giết hại thể ḷng trời ta mở đường hiếu sinh. Mă Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mă Anh phát cho vài ngh́n cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đă tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực ḷng, Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kỳ diệu, Cũng là chưa thấy xưa nay. Xă tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bỉ rồi lại thái, Nhật nguyệt hối rồi lại minh. Ngàn năm vết nhục nhă sạch làu. Muôn thuở nền Thái b́nh vững chắc, Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đă lặng thầm phù trợ. Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng nên công oanh liệt ngàn năm, Bốn phương biển cả thanh b́nh, ban chiếu duy tân khắp chốn. Xa gần bá cáo, Ai nấy đều hay. |
Hải Thượng Lăn Ông.
![]() ![]()
Hải Thượng Lăn Ông tên
húy là Lê Hữu Trác tên thường là Lê Hữu
Chẩn, là một đại y tôn của nước ta.
Sinh
ngày 12/11/1724 năm Giáp Th́n về cuối
đời Hậu Lê, ở thôn Văn Xá, làng Lưu Xá,
huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh
Hải Dương, (nay là thôn Thanh Xá, xă
Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, Hải Hưng).
Mất ngày rằm tháng Giêng năm Tân Hợi,
niên hiệu Quang Trung thứ 4 (1791) tại
xă T́nh Diễm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà
Tĩnh.
Cha là Lê Hữu Mưu đỗ tiến
sĩ, làm Thượng Thư đời Lê Dụ Tôn, mẹ quê
ở Bàu Thượng, làng T́nh Diễm, Hương Sơn,
Hà Tĩnh.
Hồi
nhỏ theo cha đi học ở Thăng Long, năm
1739 cha mất, lớn lên gặp thời loạn, vua
Lê hư vị, Chúa Trịnh lộng quyền, các nơi
đều nổi dậy chống đối, có phen Lăn ông
cũng ra cầm quân dẹp loạn, nhưng v́ chán
ghét cuộc chém giết tương tàn ấy, nên
nhân có tin người anh ở Hương Sơn mất,
ông bèn viện cớ về quê nuôi mẹ.
Nhân
bị đau ốm, Lăn ông mới t́m đến vị Lương
y Trần Độc ở núi Thành, xă Hương Cần,
huyện Thanh Chương, Nghệ An để chữa bệnh.
Trong thời gian ở đó hơn 2 năm, Lăn ông
đă nghiên cứu các sách y học kinh điển
nhất là bộ Phùng Thị Cẩm Nang và cùng
họ Trần bàn luận về y học.
Bấy
giờ có Hải Quận Công biết Lăn Ông văn vơ
kim toàn muốn mời ra cầm quân lần nữa,
nhưng v́ chán ghét chiến tranh, không
ham danh lợi Lăn Ông đă cương quyết chối
từ, trở về Hương Sơn nghiên cứu y học và
chữa bệnh.
Năm
1760, mẹ mất, lúc đó tuy mới 35 tuổi đă
nổi tiếng là danh y, ngoài việc chữa
bệnh, Hải Thượng Lăn Ông đă mở lớp dạy
cho đồ đệ. Suốt hai mươi mấy năm lưu tâm
nghiên cứu, đem hết tài năng và tinh
thần tận tụy chữa bệnh và giảng dạy.
Hải
Thượng đă lĩnh hội được nguyên lư uyên
thâm của Đông y, thu lượm bao kinh
nghiệm phong phú về chẩn trị, đúc kết
lại thành một hệ thống kết hợp chặt chẽ
lư luận với thực tiễn lâm sàng trong một
tác phẩm rất lớn và rất có giá trị là bộ
Y Tông Tâm Lĩnh. Ngoài ra lại c̣n viết
tập”Vệ Sinh Yếu Quyết” và một bản gọi
“Nữ Công Thắng Lăm”.
Năm
1782, đời Lê Hiến Tông, Niên hiệu Cảnh
Hưng thứ 43, bấy giờ đă ngoài 60 tuổi
Hải Thượng bị triệu về Kinh để chữa bệnh
cho thế tử Trịnh Cán con Chúa Trịnh Sâm.
Ở triều đ́nh, bị các ngự
y ganh tị gièm pha, măi sau Hải Thượng
mới được phép chữa nên không có kết quả.
Nhân ở kinh đô một năm ông t́m mọi cách
để in bộ sách của ḿnh nhưng không thành
công, lại có ư t́m lại các vị danh y tại
đó để trao đổi học thuật nhưng chỉ thu
lượm được một số bài thuốc kinh nghiệm
hoặc gia truyền. Hải Thượng đă kể lại
cuộc hành tŕnh này ở tập Thượng Kinh Kư
Sự, một tài liệu văn học có giá trị phản
ánh đời sống của xă hội Việt Nam hồi đó.
Lăn
Ông trở về Hương Sơn tiếp tục nghiên cứu,
chữa bệnh, giảng dạy và hoàn thành bộ Y
Tông Tâm Lĩnh, bộ sách Đông y lớn nhất
và quí nhất ở nước ta: gồm 63 cuốn (nay
chỉ c̣n 55 cuốn) do Vũ Xuân Hiên thu
thập lại và đem in năm 1866.
Nội
dung bao gồm y lí, chẩn trị, phương dược,
tŕnh bày có hệ thống, kết hợp lư luận
với thực tiễn, phân tích chứng minh rơ
ràng, như bàn về Thủy Hỏa th́ có cuốn
Huyền Tẩn Phát Vi, bàn về khí huyết có
cuốn Khôn Hóa Thái Chân, trị các bệnh
ngoại cảm th́ có Ngoại Cảm Thông Trị,
biện biệt tạp chứng th́ có Bách Bệnh Cơ
Yếu, chẩn đoán th́ có Y Gia Quan Miện,
biện luận th́ có Đạo Lưu Dư Vận, vận khí
có Vận Khí Bí Điển ... cho đến các loại
phụ khoa (Phụ Đạo Xán Nhiên), nhi khoa (Ấu
Ấu Tu Tri) đều viết một cách tinh thông,
giầu kinh nghiệm.
Tuy
chịu ảnh hưởng của y học Trung Hoa nhất
là Phùng Thị nhưng Lăn Ông đă có óc sáng
tạo vận dụng y lí hợp với hoàn cảnh khí
hậu và thể chất của người Việt Nam và đă
sử dụng thuốc Nam để chữa bệnh, như ở
các cuốn Lĩnh Nam Bản Thảo, Bách Gia
Trân Tàng và Hành Giản Trân Nhu. Nhận
định về Lĩnh Nam không có thương hàn,
Lăn Ông đă lập ra nhiều phương thang mới
ghi ở cuốn Ngoại Cảm Thông Trị. Đặc
biệt trong 2 cuốn Dương Án và Âm Án, ghi
lại những y án và phân tích về những
bệnh đă chữa khỏi hoặc không chữa được.
Cuốn Châu Ngọc Cách Ngôn để lại cho
chúng ta những điều căn dặn rất bổ ích
về chẩn đoán trị liệu và những sai lầm
tai hại cần tránh.
Thân
thế và sự nghiệp của Lăn Ông đă có một
ảnh hưởng rất lớn đối với giới Đông y
Việt Nam cả về mặt đạo đức và chuyên môn.
|